Lịch sử khẩu trang của người Nhật
Ở Nhật Bản, đôi khi người ta nói bằng đôi mắt nhiều hơn bằng miệng.
11:00 23/08/2020
Câu thành ngữ trên có lẽ đã thể hiện mối quan hệ khăng khít của người dân với những chiếc khẩu trang. Qua nhiều thế kỉ, việc đeo chúng ở nơi công cộng được coi như một phong tục của người dân xứ sở mặt trời mọc.
Khi Covid-19 bùng phát, nhiều nước bắt đầu quen với hình ảnh người dân đeo khẩu trang ra đường. Nhưng tại Nhật Bản, khẩu trang không chỉ được sử dụng thường xuyên, mà còn xuất hiện nhiều trong ngành thời trang và làm đẹp.
Khẩu trang là vật bất ly thân của người Nhật khi ra đường. Ảnh: Asahi
Người Nhật sáng tạo rất nhiều mẫu khẩu trang, có loại chống tia cực tím, ngăn mờ kính, giúp làm gọn mặt... Thậm chí, còn xuất hiện một thuật ngữ chỉ những phụ nữ đẹp khi đeo mặt nạ - masuku bijin. Họ cũng tổ chức cuộc thi xem ai nhìn hấp dẫn khi đeo khẩu trang.
Vào mùa hè khô nóng, việc đeo khẩu trang trở nên khó chịu. Nhật Bản nhanh chóng bắt kịp nhu cầu, sáng tạo ra những chiếc khẩu trang có khả năng "làm mát", bán với giá 690 yên (khoảng 150.000 đồng). Hồi tháng 5, một công ty đã cho ra đời những chiếc khẩu trang có thể chèn túi đá bên trong để giúp người đeo giải nhiệt. Chúng có giá 1.300 yên (gần 300.000 đồng) và 50.000 chiếc được tiêu thụ chỉ trong 2 tháng.
Để trả lời cho câu hỏi vì sao khẩu trang được sử dụng rộng rãi ở Nhật Bản, Tomotsu Hirai, một nhà sưu tập đồ dùng y tế cổ gợi ý nhìn lại lịch sử. Từ thời cổ đại, người dân đã biết dùng giấy hoặc lá cây thường xanh che miệng để ngăn hơi thở, tránh làm ám bẩn các đồ lễ quan trọng. Hiện nay, tại Yasaka (Kyoto) hay đền thờ Otori Grand (Osaka) vẫn tồn tại phong tục này. Vào thời Edo (1603-1868), tục lệ này dần phổ biến trong dân chúng.
Tamotsu Hirai sưu tầm rất nhiều khẩu trang cổ. Ảnh: Japan Times
Trong buổi phỏng vấn tại Tây Tokyo, Hirai lấy ra một bản in khắc gỗ nhiều màu. Trên đó là hình những bệnh nhân mặc kimono đang được các thợ massage phục vụ, bên cạnh là một bác sĩ và người châm cứu. Hirai cho biết: "Nếu quan sát kỹ, bạn sẽ thấy một trong những bệnh nhân che miệng bằng một mảnh vải".
Theo Hirai, người Nhật bắt đầu sử dụng khẩu trang từ thời Minh Trị (1868-1912). Ban đầu, chúng được dùng bởi các công nhân mỏ, nhà máy, xây dựng... Năm 1879, một trong những chiếc khẩu trang sản xuất trong nước đầu tiên được quảng cáo trên báo. Hirai có nguyên mẫu này, được bảo quản cẩn thận trong một chiếc hộp với hoa văn cổ điển.
Ngành kinh doanh khẩu trang phát triển mạnh từ thời kỳ Taisho (1912-1926), khi nền kinh tế Nhật bùng nổ. Các nhà máy liên tục nhận các đơn hàng từ châu Âu sau thế chiến thứ nhất. Những chiếc khẩu trang làm từ da, nhung cùng các vật liệu khác được quảng cáo mạnh mẽ và tràn ngập thị trường.
Người đàn ông đeo một miếng vải nhỏ che miệng trong bản khắc gỗ của Tamotsu Hirai. Ảnh: Japan Times
Dịch cúm Tây Ban Nha (1918-1920), khiến gần nửa triệu người Nhật thiệt mạng, đã biến khẩu trang từ mặt hàng xa xỉ thành sản phẩm bình dân. Khi xác định được nguyên nhân lây nhiễm virus, mọi người bắt đầu đeo khẩu trang, tin rằng hành động này bảo vệ họ khỏi bệnh cúm. Áp phích được treo khắp nơi với khẩu hiệu: "Những người không đeo khẩu trang là liều lĩnh". Với những người không đủ tiền mua khẩu trang, họ được hướng dẫn tự làm tại nhà.
Khẩu trang trong những năm đầu thời Showa (1926-1989) rất gần với loại 3D ngày nay. Nhưng chúng bị thiếu hụt nghiêm trọng do phải dành nguyên liệu cho quân đội trong thế chiến thứ hai. Do vậy, mọi người dùng khẩu trang làm từ băng gạc, đơn giản và rẻ hơn. Khi chiến tranh kết thúc, những chiếc khẩu trang này vẫn được sử dụng và coi như sản phẩm tiêu chuẩn. Chúng dần phát triển giống hơn với mẫu hiện tại, lấy màu trắng làm chủ đạo, mỏng, nhẹ, dùng một lần và có nếp gấp. "quá trình phát triển của khẩu trang khá độc đáo ở Nhật Bản", Hirai nói.
Hiện tại, Nhật Bản có hơn 57.000 ca nhiễm nCoV và hơn 1.100 ca tử vong. Nhiều người tin rằng, con số này có thể còn cao hơn nữa nếu người Nhật không có sẵn thói quen dùng khẩu trang.
Nguồn: vnexpress.net
Taxi Nhật Bản cung cấp dịch vụ “viếng mộ thay” dành cho những người không thể trở về nhà trong dịp lễ Obon
Obon là dịp lễ để tưởng nhớ tổ tiên, những người đã chết theo phong tục Phật giáo. Mọi người thường viếng thăm và dọn dẹp phần mộ của các thành viên đã mất trong gia đình vì tâm niệm rằng đây là khoảng thời gian mà linh hồn người chết được trở về.